Cơ hội mới cho châu Á từ các hiệp định thương mại vắng bóng Trung Quốc?

Quỳnh Chi
Junior Editor
Trong mọi cuộc xung đột, việc củng cố mối quan hệ với đồng minh luôn là yếu tố then chốt. Đối với Donald Trump, nguyên tắc này cũng áp dụng cho cuộc chiến thương mại hiện tại. Một số cố vấn thân cận đã nhận thức rõ điều này: Bộ trưởng Tài chính Scott Bessent đang tận dụng "khoảng thời gian hoãn 90 ngày" mà ông đạt được từ Tổng thống để củng cố quan hệ với các đối tác nhằm bao vây Trung Quốc.

Trong bối cảnh uy tín của Washington tại châu Á đang suy giảm, đây có thể là nhiệm vụ cực kỳ khó khăn cho Bessent và đội ngũ. Tuy nhiên, không nên vội vàng đánh giá thấp nỗ lực này. Nhiều quốc gia sẽ hoan nghênh nếu cơ cấu thuế quan hiện tại của Trump - tập trung áp lực lên Trung Quốc - được duy trì dài hạn.
Bắc Kinh nhận thức sâu sắc về tình thế này, và đã chủ động triển khai chiến dịch thu phục đồng minh. Chủ tịch Tập Cận Bình vừa hoàn tất chuyến công du tới Việt Nam, Campuchia và Malaysia tuần qua, nơi các nước chủ nhà đã dành những nghi thức đón tiếp đặc biệt nồng hậu.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy mức độ bất mãn đối với sự thống trị của Trung Quốc trong thương mại hàng hóa và chuỗi cung ứng sản xuất cũng mạnh mẽ ở nhiều nước châu Á không kém gì tại Mỹ - thậm chí còn gay gắt hơn, khi tình trạng mất việc làm do hàng Trung Quốc bán phá giá đang là vấn đề nghiêm trọng và dai dẳng. Indonesia ước tính đã mất khoảng 80,000 việc làm chỉ riêng trong ngành dệt may năm ngoái, với xu hướng tiếp tục gia tăng.
Tác động thực sự của các thực tiễn thương mại Trung Quốc đối với các nước đang phát triển còn sâu rộng hơn nhiều, dù ít hiện hữu trực tiếp. Có thể lượng hóa được việc làm đã mất, nhưng khó đo lường được những việc làm tiềm năng không được tạo ra. Sau nhiều năm nỗ lực tháo gỡ chuỗi giá trị khỏi sự kiểm soát chặt chẽ của Bắc Kinh, các nhà hoạch định chính sách tại các thị trường mới nổi châu Á đang trong tâm thế bất an và phẫn nộ. Họ lo ngại rằng các công cụ phát triển truyền thống - như lợi thế chi phí nhân công thấp và ưu đãi công nghiệp - không thể đối trọng với một cường quốc thương mại đang quyết tâm đổ nguồn lực duy trì mô hình tăng trưởng dẫn dắt bởi đầu tư.
Một số nền kinh tế, như Việt Nam, hiển nhiên đã hưởng lợi từ việc hội nhập sâu rộng hơn với Trung Quốc. Tuy nhiên, giới lãnh đạo các nước này nhận thức rõ cái giá phải trả. Không quốc gia nào xem đó là mối quan hệ tương hỗ lành mạnh có thể thay thế cho sự hợp tác với doanh nghiệp, nhà đầu tư và thị trường Mỹ.
Một số quốc gia, đặc biệt là Ấn Độ, hết sức mong muốn cô lập Bắc Kinh tối đa có thể, và đã tiến xa hơn phần lớn các nước phương Tây trong việc kiểm soát đầu tư Trung Quốc và cắt giảm liên kết thương mại. Những quốc gia khác, như Indonesia, có thể sẵn sàng tham gia vào bất kỳ nỗ lực tái cấu trúc chuỗi cung ứng nào tạo cơ hội công nghiệp hóa, nhưng họ cần động lực đủ mạnh để đối trọng với cả lời hứa lẫn áp lực mà Bắc Kinh có thể triển khai. Và còn những quốc gia như Campuchia, có lẽ đã phụ thuộc quá sâu vào Trung Quốc để có thể trở thành đối tác tin cậy của Mỹ.
Toàn bộ các nước châu Á đều mong muốn giảm thiểu ảnh hưởng của Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất. Hiện tại, khi các thị trường phương Tây đang dựng rào cản với hàng hóa Trung Quốc, các nhà sản xuất và hoạch định chính sách châu Á đang hết sức lo ngại rằng năng lực dư thừa của Trung Quốc sẽ tràn ngập thị trường nội địa của họ với làn sóng hàng nhập khẩu giá rẻ.
Tuy nhiên, động lực của các quốc gia này không hoàn toàn đồng nhất. Họ đang cạnh tranh trực tiếp với nhau để thay thế vị thế sản xuất của Trung Quốc trong các ngành cụ thể. Một số quốc gia còn muốn trở thành bên "lách luật" trong bất kỳ thỏa thuận cuối cùng nào bằng cách trung chuyển hàng Trung Quốc hoặc thực hiện các hoạt động lắp ráp giá trị thấp từ linh kiện được chuẩn bị tại đại lục.
Cần có thêm yếu tố để liên kết các lợi ích đa chiều này. Nếu cả viện trợ và ưu đãi thương mại đều không khả thi, Washington thiếu vắng đòn bẩy. Trump cho rằng tiếp cận người tiêu dùng Mỹ là hấp dẫn, nhưng đối với các quốc gia đang phải cạnh tranh với nhau và với Bắc Kinh, lợi ích tiềm năng từ thương mại này có thể quá bất định. Xét cho cùng, nếu họ buộc phải loại bỏ Trung Quốc khỏi chuỗi cung ứng, chi phí gia tăng có thể quá cao để duy trì khả năng cạnh tranh tại thị trường Mỹ.
Một liên minh thương mại công bằng đòi hỏi các chiến lược đặc thù được thiết kế riêng cho từng quốc gia tham gia. Ngay cả khi Bessent có thể nhận diện được điều này, ông vẫn cần sự ủng hộ từ cấp trên. Bất kỳ quan hệ đối tác nào cũng đòi hỏi Trump sẵn sàng thương lượng chi tiết và tôn trọng quyền tự chủ của các đối tác.
Trump đã cam kết đàm phán với "hơn 75" quốc gia mà ông tuyên bố đã tiếp cận Mỹ. Bất kỳ tiến trình đàm phán nào đều đòi hỏi ông thừa nhận rằng đa số đối tác châu Á không có ý đồ lừa gạt Mỹ. Tuy nhiên, sự thay đổi nhận thức như vậy dường như khó xảy ra: Sau chuyến thăm của ông Tập tới Việt Nam, Tổng thống đã nhận định mục đích của cuộc họp là "cố gắng tìm ra cách lừa đảo Hợp chủng quốc Hoa Kỳ".
Mỹ chỉ có thể hưởng lợi từ một liên minh thương mại loại trừ Trung Quốc, đồng thời đảm bảo rằng các quy định nội địa và tiêu chuẩn cao của Mỹ không làm suy giảm năng lực cạnh tranh của các nhà sản xuất trong nước, từ đó xây dựng chuỗi cung ứng mới có sự tham gia của lao động Mỹ. Điều Trump thực sự cần để đạt được mục tiêu của mình là một quan hệ đối tác toàn diện, công bằng và chất lượng cao với các đồng minh xuyên Thái Bình Dương. Hay nói cách khác - một hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương.
Bloomberg